- Tên gọi di tích:
Danh lam thắng cảnh Bàn Than – Hòn Mang – Hòn Dứa

- Địa điểm và đường đi đến di tích
a) Địa điểm di tích: Danh lam thắng cảnh Bàn Than – Hòn Mang – Hòn Dứa thuộc địa bàn xã Tam Hải, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam.
b) Đường đi đến di tích
Từ trung tâm tỉnh lỵ tỉnh Quảng Nam (thành phố Tam Kỳ) đi theo quốc lộ 1A về phía Nam khoảng 30 km đến trung tâm hành chính huyện Núi Thành. Tiếp tục theo quốc lộ 1A về hướng Nam khoảng 4,5km đến ngã 3 Tam Quang, rẽ trái theo đường ĐT 618 đi khoảng 10km đến bến phà Tam Hải. Qua phà theo đường liên xã đi khoảng 2km đến UBND xã Tam Hải. Từ đây, tiếp tục theo đường liên xã đi về phía Đông khoảng 3km sẽ đến cụm danh lam thắng cảnh Bàn Than – Hòn Mang – Hòn Dứa.
Để đi đến di tích Bàn Than – Hòn Mang – Hòn Dứa, chúng ta có thể sử dụng phương tiện giao thông đường bộ (ô tô, xe máy) kết hợp với phương tiện giao thông đường thủy (phà, xuồng, ghe).
- Phân loại di tích
Theo quy định tại Điều 11 Nghị định số 98/2010/NĐ-CP ngày 21 tháng 9 năm 2010; căn cứ kết quả khảo sát, nghiên cứu về di tích, di tích Bàn Than – Hòn Mang – Hòn Dứa được phân loại: Danh lam thắng cảnh.
- Sự kiện, nhân vật lịch sử, đặc điểm của di tích
Quảng Nam nói chung và huyện Núi Thành nói riêng nằm phía Đông dãy Trường Sơn và phía Nam đèo Hải Vân nên thuộc vùng khí hậu chuyển tiếp giữa khí hậu miền Bắc và khí hậu miền Nam, nhưng lại mang tính chất á xích đạo nhiều hơn; đồng thời, Núi Thành còn có những đặc thù riêng về yếu tố địa hình, với một địa hình mở ra biển, có nhiều đầm phá, trong đó phá Trường Giang là phá lớn thứ hai của Việt Nam. Núi Thành có 17 xã, thị trấn và là địa phương có nhiều tiềm năng phát triển du lịch khi sở hữu đường bờ biển kéo dài 37km với những cảnh đẹp thơ mộng, nhiều bãi biển, ghềnh đá; trong đó Bàn Than, Hòn Mang, Hòn Dứa là những điển hình tiêu biểu nhất cho giá trị di sản thiên nhiên tại vùng đất này.
Dải núi Bàn Than, đảo Hòn Mang, Hòn Dứa là các di chỉ đá biến chất thuộc phức hệ Khâm Đức – Núi Vú. Ở đây lộ đá phiến amphibol là chủ yếu, đôi chỗ có ít đá phiến thạch anh – biotit xen kẹp theo thớ phiến với các mạch hay vỉa đá tiêm nhập của granit, thạch anh, thạch anh – epidot (zoizit) và các cấu tạo kiểu khúc dồi rất phổ biến. Các mặt phiến cắm về Tây Nam và góc dốc khoảng 30 độ. Nguồn gốc thành tạo của chúng rất đa dạng, thuộc tổ hợp ophiolit (vỏ đại dương) bao gồm các trầm tích tướng biển sâu (silic, sét – silic xen đá vôi, sét vôi, silic – vôi phân lớp mỏng), các tập phun trào basalt, các thể đá siêu mafic – mafic (gabro, dunit, peridotit). Sau đó, các thành tạo này trải qua nhiều giai đoạn biến dạng, biến chất khác nhau. Các đá phiến ở đây tuy cũng có màu đen như đá ở đảo Lý Sơn nhưng như nhận định của các nhà khoa học, các chuyên gia địa chất đầu ngành, đá ở Bàn Than và các đảo Hòn Mang, Hòn Dứa là đá gốc có độ tuổi đến 400 triệu năm, được đẩy nhô lên khỏi mặt nước biển qua một đợt kiến tạo địa chất.
Khu vực Núi Thành thuộc phần đông nam của Đới khâu Tam Kỳ – Phước Sơn. Theo các nhà kiến tạo đây là đới biến dạng đa kỳ quy mô lớn với 5 pha biến dạng chồng nhau. Pha biến dạng 1 liên quan tới sự va chạm mảng trong Ordovic – Silur tạo nên địa khối Đông Dương nguyên thủy. Pha biến dạng 2 diễn ra trong giai đoạn cuối Paleozoi – đầu Mesozoi liên quan tới tạo núi Indosini. Các cấu tạo muộn hơn là hậu quả của sự tương tác các địa mảng xung quanh địa khối Đông Dương và vẫn đang tiếp diễn đến hiện tại. Chịu ảnh hưởng của các hoạt động kiến tạo này các đá trong khu vực nghiên cứu bị biến dạng tạo các nếp uốn khá rõ.
Các pha biến dạng – kiến tạo này đã làm cho các đá bị ép phiến, biến chất, dập vỡ, vò uốn, là nguyên nhân tạo cơ bản tạo ra các gờ đá, cửa tò vò và các hình thù kỳ dị khi chứng bị phong hóa và sóng biển bào mòn. Ngoài ra, các cấu tạo uốn nếp trong đá biến chất còn được tìm thấy ở chủ yếu ở hòn Mang, biển Rạng và một ít ở Bàn Than.
Khi thành tạo các nếp uốn, các vỉa hoặc lớp có độ dẻo vừa bị đứt ra thành từng phần riêng biệt tạo nên cấu tạo khúc dồi (boudinage). Cấu tạo khúc dồi xuất hiện trong các tầng mà các đá có tính cơ học không đồng nhất. Cấu tạo này cho phép ta xác định được hướng tác động của các lực trong quá trình biến chất động lực và xác định được hướng dịch chuyển của vật chất dưới tác động của các lực này. Tại cả hai khu vực Tam Quang và Tam Hải đều quan sát thấy các cấu tạo khúc dồi (boudinage).Các hoạt động đứt gãy và khe nứt quan sát khá rõ ở hòn Mang, hệ thống khe nứt theo phương 1900 và 1500.
Khu vực Tam Hải nói chung, núi Bàn Than, đảo Hòn Mang, Hòn Dứa nói riêng là điểm nhấn về tài nguyên du lịch của Núi Thành. Nơi đây có các ghềnh đá phiến sẫm màu rất gây ấn tượng, các bãi biển rộng, dài, sạch, nước biển xanh trong, các rặng dừa xanh mát, con người hiền hòa, sản vật biển phong phú. Tuy nhiên, giá trị cốt lõi của của cả khu vực là lớp lớp các vỉa đá phiến nhô cao ra phía biển.Đá phiến vừa là tên khoa học vừa là tên gọi dân dã về một loại đá từng chịu một quá trình tác động của trường ứng xuất nén ép cao, nhiệt độ cao, bị biến đổi và bị ép thành các phiến. Ở khu vực Tam Hải đá phiến phân bố ở dải đồi cao phía bắc xã đảo Tam Hải, phía bắc mũi nhô xã Tam Quang, ở dải các bãi đá, đảo đá trong vũng An Hòa mà tiêu biểu là Bàn Than, Hòn Mang và Hòn Dứa.
Cho đến nay, các nhà địa chất xếp các đá phiến khu vực Bàn Than, Hòn Mang, Hòn Dứa của xã Tam Hải vào loạt các phức hệ đá biến chất khu vực phân bố rộng ở các huyện Núi Thành, Tiên Phước, Hiệp Đức – Quảng Nam. Đây là sản phẩm biến chất hình thành trong quá trình hút chìm rìa phía bắc địa khối Kon Tum của Việt Nam gắn với các hoạt động kiến tạo rộng lớn giữa các mảng lục địa cổ. Vì vậy khu vực đá phiến ở các xã Tam Hải – Tam Quang có giá trị khoa học cao và đặc trưng về một giai đoạn phát triển rất căn bản và mãnh liệt của vỏ trái đất, có giá trị tham khảo đối sánh quốc tế.
Đá phiến ở Bàn Than, Hòn Mang, Hòn Dứa không chỉ bộc lộ trên diện rộng mà còn được sóng biển và gió mài mòn rất sắc nét. Nhờ đó, trên mặt cắt các tập đá có thể quan sát rõ các biểu hiện thạch học, các biểu hiện biến vị của đá trong quá trình vận động biến chất và sau biến chất. Trên bề mặt các ghềnh đá, vách đá, ở mức độ rộng hơn, còn có thể quan sát thấy sự thay đổi về thành phần thạch học, các hệ thống phá hủy đứt gẫy. Tất cả được bầy rõ dưới ánh sáng ban ngày. Vì vậy nơi đây có thể được coi như một phòng trưng bày tự nhiên về thạch học và động lực đá biến chất dùng cho công tác tham quan, giáo dục đào tạo.
Các khối đá thường có cấu tạo phân phiến mỏng và siêu mỏng, thế phiến đơn nghiêng đều, độ gắn kết giữa các phiến tương đối cao. Do vậy tác động của sóng, gió, thủy triều đã tạc nên các khối đá dáng hiên ngang, chắc khỏe, hình dạng kỳ vỹ. Trên bề mặt các ghềnh đá, thềm đá còn quan sát thấy các đường nét lạ mắt, hấp dẫn giống như các ký tự cổ, các đường gân đá… Ở một số vị trí, quá trình phong hóa đã làm mầu sắc các tệp phiến lóng lánh trông tựa như một khối ngân phiếu.. Các quá trình phong hóa, bóc mòn và tác động của sóng biển vào cấu trúc đá gốc đã hình thành các thềm biển, bãi biển, vách biển; nhiều dạng địa hình có hình thù độc đáo như tháp đá, nấm đá, các tảng lăn. Tại mũi đá Bàn Than có rất nhiều khối đá khổng lồ có hình thù kì dị, mà trông xa có nhiều hình dạng hấp dẫn. Từ xa nhìn mũi Bàn Than như đầu một con rồng khổng lồ đang vươn ra biển. Tất cả những điều này cùng với cảnh quan thiên nhiên hùng vỹ xung quanh đã làm cho các gềnh đá ở bán đảo Bàn Than, đảo Hòn Mang, đảo Hòn Dứa trở thành ghềnh đá phiến đặc sắc ở Việt Nam và thuộc vào loại đẹp trên thế giới.
Ở khu vực Tam Hải phát triển phong phú tầng phong hóa laterite trong đó có lớp đá ong dày 2 – 3m. Có thể gặp đá ong ở hầu hết các đồi, đảo đá phiến tại các xã Tam Quang, Tam Hải. Tất cả các vách dốc đá đều lộ đá ong mầu đỏ sậm. Đá ong khu vực này tương đối trưởng thành, đã được khai thác làm vật liệu xây dựng. Đá có điều kiện phát triển mạnh trên các thềm đá phiến giầu sắt, ở khu vực có tác động của biển. Kiểu phát triển như thế tương đối hiếm gặp dọc bờ biển Việt Nam. Đây có thể được coi là một khu vực đặc trưng về sự hình thành đá ong trên đá phiến thuộc đới ven biển nhiệt đới. Các tảng đá ong mầu đỏ sậm lở xuống bờ biển lại làm cho quang cảnh bãi biển thêm đa dạng và đặc sắc. Như vậy, đá ong ở khu vực Tam Hải có giá trị đặc sắc về nghiên cứu khoa học và vẻ đẹp tự nhiên.
Bên cạnh đó, khu vực Tam Hải có đa dạng các loại hình bãi biểnchất lượng cao, mầu sắc đẹp, nước biển xanh, hấp dẫn. Ở đây ta có thể bắt gặp 4 loại bãi biển: Bãi biển đá tảng, bãi biển sạn sỏi, bãi biển cát vàng, bãi biển cát trắng mịn với các chế độ sóng gió khác nhau từ nhẹ đến lớn. Ở Hòn Dứa có bãi biển sạn sỏi mầu vàng sáng, bãi biển đá phiến thoải lẫn các tảng đá ong mầu đỏ sậm, sóng nhẹ. Ở Việt Nam, không có nhiều khu vực có được sự đa dạng này. Sự đa dạng về các loại hình bãi biển là thế mạnh tài nguyên rất quý đối với khu vực Tam Hải.
Trên tất cả là sự đa dạng về cảnh quan địa mạo. Đó là các loại địa hình đồi, thềm, gềnh, bãi, vũng vịnh, cửa sông… Ở khu vực Tam Hải có 2 mức thềm biển, cao 10 – 15m và 30 – 35m, cùng 2 loại thềm: thềm mài mòn, thềm tích tụ. Các loại thềm này đều phát triển đầy đủ, thể hiện rõ nét trên địa hình, tạo nên các cảnh quan đẹp. Đó là Hòn Mang, Hòn Dứa (dạng thềm mài mòn, bằng phẳng, cao 10m). Đó là thềm tích tụ cát hình vòng cung, dài khoảng 4km, cao 6 – 15m, là nơi sinh sống của toàn bộ cư dân Tam Hải. Và xa hơn, cao hơn là các khu đồi phẳng, cao 30 – 35m ( khu mũi Bàn Than, khu bãi biển Bà Tình) nơi phát triển phong phú đá ong trên đá phiến. Xung quanh các thềm này là đa dạng các vách, các gềnh, bãi cùng các cửa sông, vũng vịnh.
Ngoài ra, theo kết quả nghiên cứu của các nhà khoa hoc, xã đảo Tam Hải, và đặc biệt là xung quanh khu vực danh lam thắng cảnh Bàn Than, Hòn Mang, Hòn Dứa… hiện có hơn 90 ha rạn san hô, với khoảng hơn 100 loài, trong đó phần lớn là san hô gạc nai và san hô khối. Hệ sinh thái rạn san hô Tam Hải có 41 loài rong biển, 168 loài cá, trong đó nhiều loài có giá trị kinh tế như cá hồng, cá mua, cá lượng, cùng với tôm hùm đỏ, tôm hùm sỏi và nhiều loài ốc đẹp, bên cạnh còn có một số loài thủy sinh có thể làm dược liệu.
- Sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng liên quan đến di tích
Di tích danh lam thắng cảnh Bàn Than – Hòn Man – Hòn Dứa có cảnh quan thiên nhiên đẹp, là khu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa lý. Hiện nay, tại di tích không diễn ra các hoạt động sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng.
- Khảo tả di tích
Tam Hải là một xã đảo nằm ở phía Đông Nam huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam, có diện tích 15,03 km2, dân số khoảng 8500 người. Là một xã đảo, nhưng Tam Hải không nằm tách biệt ngoài biển khi có 3 mặt giáp biển và 1 mặt giáp sông; điều này có thể là một trong những lý do để giải thích về nguồn gốc xuất xứ của địa danh Tam Hải. Tam Hải thuộc dạng đảo cửa sông – vũng vịnh. Trên bình đồ, đảo trông giống như hình tam giác hơi cong, với góc phía đông bắc là mũi An Hòa, phát triển trên đá cứng thuộc loại trầm tích bị biến chất có tuổi cách nay hơn 400 – 500 triệu năm. Hai cạnh còn lại của đảo án ngữ hai cửa sông, một ở phía Tam Hòa và một ở phía Tam Quang; trong đó, dải núi Bàn Than, đảo Hòn Mang, đảo Hòn Dứa nằm về phía đông bắc của xã Tam Hải.
Sự hình thành của đảo gắn liền với quá trình bồi lắng vật liệu từ đất liền ra, tích tụ lại ở khu vực cửa sông mà phía trước có đảo chắn. Vật liêu gồm cát bột, ít set, dạng phù sa phủ ngay trên chân của đảo sót đá gốc, tạo cho phần lớn diện tích của đảo là bồi tích trẻ (khoảng 3.000 năm trở lại đây) và phần còn lại là mũi An Hòa là phần đá cứng. Quá trình tương tác của sông và biển, đặc biệt là sóng biển đã tạo nên bãi cát rộng cũng như các vách (cliff), thềm biển mài mòn, cổng trời tuyệt đẹp. Cũng chính trên mảnh đất đảo cửa sông này, trước đây người Chăm cũng đã biết tìm nguồn nước ngọt từ các mạch ngầm trong đá cứng để dùng trong sinh hoạt và giao lưu với bên ngoài.
Dải núi Bàn Than nằm ở phía Đông Bắc đảo Tam Hải gồm các mũi nhô do tác động của sóng để lộ đá phiến thạch anh biotit, đá phiến amfibon – plagiocla thuộc hệ tầng Núi Vú tuổi Proterozoi muộn – Cambri (PR2– €)nv. Đá cắm về tây nam (220-240o). Cấu tạo trượt trong quá trình biến chất và cấu tạo khúc rồi (boudinage) thể hiện bằng các nhân thạch anh khá rõ. Vách biển dốc đứng cắt vào thềm cao 15 m và thềm cao 25 – 30 m. Các khối laterite dạng khung xương kích thước 1,0 – 2,0 m3 chứa cuội thạch anh mài tròn rơi trên bãi biển do tác động phá hủy của sóng vào vách thềm cho thấy geosite này đang hoạt động. Đây là đảo sót dạng mặt bàn, di tích còn lại của thềm biển cổ, hình thành cách nay trên 10.000 năm. Đá gốc ở đây giống với đảo lớn, nhiều chỗ đá có cấu tạo đẹp, cảnh quan hữu tình. Quanh đảo có rạn san hô, phát triển rộng, rất hấp dẫn cho du lịch lặn biển ngắm san hô.
Nằm về phía Đông Nam của Bàn Than và cách Bàn Than khoảng 400m là đảo nhỏ mang tên Hòn Mang. Đảo Hòn Mang nổi lên giữa biển khơi, rộng khoảng 2ha và được cấu tạo bởi các đá thuộc hệ tầng Núi Vú tương tự như Bàn Than. Các đá ở đây có hệ thống khe nứt rất rõ theo phương á kinh tuyến (190o) và tây bắc – đông nam (150o). Chân hòn có một bãi cát vàng, hạt thô có thể làm bãi tắm cho các nhóm du khách nhỏ. Nhô trên bãi cát là các khối đá biến chất, khối laterite trông như một bức tranh khảm. Tại đây có sự hiện diện bậc thềm biển cao 1,5 m và 5,0 m. Hòn Mang có cảnh quan thiên nhiên rất đẹp với những dãi đá đen xếp chồng lên nhau sừng sững giữa mây trời, những bãi cát vàng trong nắng và những dải san hô trải rộng bao quanh đảo với nhiều màu sắc rực rỡ và cũng là môi trường sống lý tưởng của loài tôm hùm nhí và nhiều loài cá.
Đảo Hòn Dứa có diện tích hơn 11ha, nằm cách Bàn Than khoảng 700m về phía Đông Nam. Cảnh quan tự nhiên của đảo rất đẹp với các vách đá có các tảng lớn laterit đá ong lớn trông như phim trường tự nhiên. Các khối đá, vân đá ở đây đẹp ở mọi góc cạnh. Xung quanh đảo là rạn san hô, rất hợp cho du lịch cắm trại, lặn biển ngắm san hô và bắt cá.
Theo các nhà nghiên cứu địa chất, các đá trầm tích lục nguyên và núi lửa lộ ra nhiều nơi dọc bờ biển các xã Tam Quang, Tam Hải, Bàn Than, đảo Hòn Mang, Hòn Dứa, có tuổi cách đây khoảng 750 đến 470 triệu năm, được xếp vào các phức hệ Khâm Đức – Núi Vú; Neoproterozoi – Cambri sớm và A Vương: Cambri giữa – Ordovic Sớm: Các thành tạo này có tính phân lớp, phiến hóa mạnh tạo thành những lớp mỏng xếp chồng nhau song song với nhiều màu sắc xám, xanh, phớt đỏ, vàng xen kẽ nhau bị uốn nếp với hình thù nhiều tư thế nghiêng, chờm phủ kéo dài hoặc đứt đoạn quan sát được trên nhiều vết lộ di sản địa chất tuyệt đẹp mà ít nơi có được.
Bàn Than, Hòn Mang, Hòn Dứa trong quá trình, không gian hình thành, phát triển địa hình, cấu trúc địa mạo khu vực: Trong cấu trúc địa mạo Nam Trung Bộ, vùng Tam Hải thuộc đồng bằng Hội An. Đồng bằng Hội An phương tây bắc- đông nam, kéo dài từ chân đèo Hải Vân, Đà Nẵng tới Ba Làng An, Quảng Ngãi, dài 120km, rộng 5 – 22km, rộng 11km ở Tam Hải. Về vị trí, Tam Hải gần như ở phần giữa trong dải đồng bằng Hội An; phía bắc có các điểm du lịch ở Đà Nẵng, Sơn Trà, Hội An, Cù Lao Chàm; phía Nam có các điểm du lịch Lý Sơn, Ba Làng An, Quảng Ngãi.
Địa hình là sản phẩm của các quá trình địa chất. Tính đa dạng, đa kỳ của các thành tạo địa chất, của các đứt gãy, khe nứt, của các quá trình địa chất trong khu vực đã tạo nên tính đa dạng, đa vẻ, đa thời, đa nguồn gốc; đa cấp độ lý thú, hấp dẫn của các yếu tố địa hình, cấu trúc địa mạo, sinh thái và quá trình địa chất- địa mạo trên đồng bằng Hội An, trong đó có Bàn Than, Hòn Mang, Hòn Dứa của xã Tam Hải, huyện Núi Thành.
Theo phương Đông Bắc – Tây Nam, qua Tam Kỳ tới bờ biển hiện tại, trong khoảng rộng 20 – 25km, có 3 đới địa hình phát triển gần như song song nhau. Đới thứ nhất ở phía Tây Nam, tính từ vị trí cách Tam Kỳ 4km về phía Tây Nam, rộng 10 – 12km, gồm các dãy núi thấp khối tảng phát triển theo các đứt gãy phương Tây Bắc – Đông Nam, hạ bậc 61 thấp dần về phía Đông Bắc. Đới thứ 2, từ chân núi đến Tam kỳ, rộng 3 – 4km, gồm các thềm mài mòn, mài mòn – tích tụ tuổi Pleistocen sớm, Pleistocen giữa – muộn, Pleistocen muộn và các núi sót nguồn gốc bóc mòn, mài mòn. Trong đới này các thềm thấp hơn, trẻ dần về phía đông bắc; các núi sót phân bố theo các tuyến phương Tây Bắc – Đông Nam. Đới thứ 3, từ Tam Kỳ đến bờ biển hiện tại, rộng 4 – 5km gồm hai dải đồng bằng cát phương Tây Bắc – Đông Nam,tuổi theo bản đồ địa chất tỷ lệ 1/50.000 Holocen giữa và Holocen giữa – muộn. Theo Gorden E. Fraser, 1989, các dải đồng bằng này là bar cát chắn ngoài (barrie); đồng sinh với chúng các lagoon Tam Kỳ, Trường Giang chạy song song với chúng ở phía trong. Hiện nay, các lagoon này bị bồi lấp chưa hoàn toàn; dọc theo chúng là hai dải đồng bằng thấp trũng cùng phương; sông Tam Kỳ, sông Trường Giang chảy theo phần thấp nhất của trũng. Dọc theo bờ biển về phía Động Bắc là đới biển nông ven bờ với các núi sót dạng đảo ở Cù Lao Chàm, Tam Hải, Lý Sơn.
Theo phần tích tụ kéo dài của đồng bằng cát Holocen giữa – muộn, phần Tây Nam của xã Tam Hải thuộc đới 3, núi Bàn Than và các đảo Hòn Mang, Hòn Dứa trong vũng An Hòa thuộc đới biển nông ven bờ.
Theo phương Tây Bắc – Đông Nam, đồng bằng Hội An còn bị chia cắt, phức tạp hóa bởi các đứt gãy phương Đông Bắc – Tây Nam, phương vĩ tuyến, á vĩ tuyến. Sông Thu Bồn phát triển theo đứt gãy phương vĩ tuyến, cắt ngang qua hai dải đồng bằng cát ở vùng cửa sông trước khi đổ ra biển. Nhờ vậy, sông Trường Giang hội lưu được với sông Thu Bồn, con đường du lịch theo sông Trường Giang từ Tam Hải, huyện Núi Thành liên thông được tới Hội An. Đứt gãy phương Đông Bắc – Tây Nam chạy tới Khương Thọ dài trên 20km có thể còn tiếp tục kéo dài về phía Đông Bắc, ngang qua vụng Tam Giang, tới vũng An Hòa. Hiện chưa rõ mối liên quan cụ thể giữa các khe nứt ở Bàn Than, Hòn Dứa với các đứt gãy ở khu vực Tam Kỳ, nhưng bước đầu đã thấy: chúng cùng phương và cùng mức độ phổ biến.
Địa hình, cấu trúc địa mạo – một dạng di sản địa chất có giá trị của dãy các đảo Bàn Than – Hòn Mang – Hòn Dứa: BànThan, Hòn Mang, Hòn Dứa và các đảo nhỏ lân cận tạo thành một dãy các đảo dài trên 3km, phương Tây Bắc – Đông Nam, rộng đến 0,8km. Ở Bàn Than, Hòn Mang, Hòn Dứa, lộ trên các vách và thềm mài mòn hiện đại, lộ rộng rãi các đá chưa bị phong hoá; theo tài liệu của hai nhà địa chất Nguyễn Xuân Bao, Trịnh Long công bố tháng 7/2017, chủ yếu là đá phiến amphibol, đôi chỗ có amphibolite, mặt phiến cắm về Tây Nam, góc dốc 30 độ. Hệ thống khe nứt phương Tây Bắc – Đông Nam, phương Đông Bắc – Tây Nam phát triển nhất; ít hơn là các khe nứt phương á kinh tuyến, á vĩ tuyến.
Di tích các thềm biển cổ, thềm cao 20 – 36m, rộng khoảng 20ha ở núi Bàn Than, tuổi chưa được xác định; thềm cao 10 – 14m, rộng một vài ha ở đảo Hòn Dứa, Hòn Mang tuổi giả định Pleistocen muộn. Trẻ hơn, tương ứng với các thềm biển tuổi Holocen giữa, Holocen giữa – muộn có các thềm mài mòn; mài mòn – tích tụ cao 5 – 6m, 2 – 3m. Đồng sinh với mỗi mặt thềm có các vách bóc mòn – mài mòn cắt vào đá gốc, dốc và rất dốc, độ cao tương đối từ một vài mét đến 5 – 10m.
Các đảo, các khe lớn và các gò dài phát triển trên các đảo đều có cùng phương Tây Bắc – Đông Nam, trùng với phương của khe nứt chính; phương của các phiến đá biến chất. Do bóc mòn chọn lọc theo thạch học và theo các hệ thống khe nứt còn hình thành trên các vách mài mòn, thềm mài mòn các khe rãnh, hang hốc, những mỏm đá, khối đá đa dạng về kích thước, dáng vẻ. Ở các đoạn sườn hướng tây nam, nhỏ thì thấy các phiến đá xếp nghiêng dạng ngói lợp; lớn hơn thấy các dãy đơn nghiêng xếp tầng, xếp lớp với nhau ở Hòn Mang.
Dưới tác động của sóng từ hướng Đông Bắc, các đảo thuộc dãy đảo Bàn Than, Hòn Mang, Hòn Dứa như các đê chắn sóng đối với vụng An Hòa. Giống như quá trình bồi tụ hiện đại sau đê chắn Cù Lao Chàm ở Hội An, bồi tụ phát triển ở phía tây nam các đê chắn vùng Tam Hải. Ở Bàn Than đã phát triển một dải trầm tích sau đê chắn dài 1,5km, rộng đến 1km, tuổi theo tài liệu địa chất từ Pleistocen muộn đến hiện đại. Dải đê cát này đã nối với phần cuối cùng của dải đồng bằng cát thứ hai ở Tam Kỳ, cùng với Bàn Than tạo nên một đảo mới, rộng hơn,diện tích khoảng 7,5km2, gồm toàn bộ xã đảo Tam Hải, tuổi đa thời, nguồn gốc mài mòn – tích tụ.
Với các đảo, phần nổi chỉ chiếm khoảng 2 – 20 % diện tích so với phần chìm ngập ở dưới nước theo bản đồ địa hình tỷ lệ 1/50.000. Nếu tính đến chân sóng, độ sâu dự kiến 10 – 15m thì diện tích mài mòn trên nền đá gốc còn lớn hơn rất nhiều. Với bề mặt gồ ghề, nhiều khe, hang hốc lớn nhỏ, theo tiến sĩ Chu Mạnh Trinh, tháng 7/2017, với các điều kiện như vậy, vùng Tam Hải rất thuận lợi cho nhiều loại sinh vật bám đáy, đặc biệt là tôm hùm nhí, ẩn trú, sinh dưỡng, phát triển.
Vùng Tam Hải, huyện Núi Thành với Bàn Than, Hòn Mang, Hòn Dứa là nơi hội tụ nhiều yếu tố địa hình, cấu trúc địa mạo có giá trị. Đó chính là các di sản địa chất. Các di sản này có ý nghĩa rất lớn về khoa học, kinh tế, phát triển du lịch.
- Sơ đồ phân bố di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia tại di tích
Di tích danh lam thắng cảnh Bàn Than – Hòn Man – Hòn Dứa có cảnh quan thiên nhiên đẹp, là khu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa lý. Hiện trạng di tích được bảo vệ nguyên trạng; do vậy, chưa lập sơ đồ vị trí các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.
- Giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thẩm mỹ của di tích
Khu vực các xã Tam Hải, Tam Quang và lân cận thuộc huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam lộ rộng rãi các đá biến chất cổ tuổi Neoproterozoi – Cambri tạo thành các vách đá, ghềnh đá, đảo nổi, rạng đá nổi và chìm rất đa dạng, đẹp mắt ở các khu vực núi Bàn Than, hòn Mang, hòn Dứa (Tam Hải) và Bãi Rạng (Tam Quang). Cùng với các bãi biển thơ mộng, các địa điểm trên tạo nên một loạt các điểm du lịch mạo hiểm, tắm biển, nghỉ dưỡng hấp dẫn. Ngoài ra các diện lộ đá biến chất cổ rất rộng rãi, đá lộ khá tươi mới không bị phủ bởi đất phong hóa, lưu giữ rất tốt thành phần, sự phân bố và quan hệ các tập đá khác nhau, các dấu vết kiến tạo như nếp uốn, khe nứt, đứt gãy… khá rõ ràng, là nơi lý tưởng cho các hoạt động du khảo về địa chất, địa lý. Theo các nhà địa chất Nguyễn Xuân Bao, Trịnh Long, các đá biến chất cổ trong khu vực cùng với đá xâm nhập granit gneiss phức hệ Chu Lai tạo thành một tổ hợp đặc trưng cho hoạt động tạo núi Caledoni, đây là một hoạt động tạo núi có tính chất toàn cầu mà cho đến nay chưa được nghiên cứu thấu đáo.
– Giá trị khoa học: Di tích Bàn Than – Hòn Mang – Hòn Dứa là danh lam thắng cảnh có giá trị nổi bật về địa chất thể hiện ở các đặc điểm: Các điểm lộ đá cổ độc đáo và hiếm có: Các đá thuộc hệ tầng Khâm Đức và Núi Vú là đá biến chất lộ trên diện rộng ở Bàn Than, Hòn Mang, Hòn Dứa thể hiện rõ: màu sắc từ xám đen đến màu lục, cấu tạo phân phiến, vi uốn nếp, cấu tạo khúc dồi, mặt trượt, các phá hủy trẻ và đặc trưng mặt phân phiến với góc dốc thoải… Đây là vết lộ hiếm có ở xứ nhiệt đới vì lộ toàn đá gốc, trong khi đó phần lớn ở các nơi khác (ở Yên Bái, Nghệ An và Tây Nguyên) đá gốc đều bị phong hóa mạnh.
Có giá trị khoa học cao: Các điểm lộ đá gốc có tuổi Proterozoi giữa – muộn và Cambri bị biến chất là đối tượng nghiên cứu về lịch sử phát triển địa chất cổ ở nước ta. Điểm lộ với đặc điểm lộ toàn đá gốc, lưu giữ nguyên vẹn các đặc điểm địa chất từ màu sắc đến các cấu tạo là điều kiện quan trọng đối với nghiên cứu Xác định thành phần vật chất ban đầu của đá biến chất, tuổi thành tạo và tuổi biến chất là cơ sở xác định bối cảnh kiến tạo và quá trình phát triển địa chất. Kết quả nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ lịch sử của một giai đoạn phát triển địa chấtquan trọng của Trái Đất.
Có giá trị giáo dục nâng cao dân trí: Các điểm lộ đá gốc ở Bàn Than, Hòn Mang, Hòn Dứa như một bảo tàng tự nhiên về hoạt động địa chất, phản ánh quá trình phát triển địa chất. Chính vì vậy, đây là những địa điểm lý thú để thăm quan du lịch, học tập nghiên cứu nhằm hiểu rõ môi trường thành tạo các loại đá, quá trình chúng bị biến đổi dưới tác động của nhiệt độ, áp suất và trường lực kiến tạo. Qua thăm quan học tập tri thức về lịch sử phát triển địa chất được nâng cao.
Có các dạng địa hình độc đáo, hấp dẫn: Bờ biển vách dốc đứng với hệ thống phá hủy trẻ ( 300< 800 ), các đảo có bề mặt bằng phẳng với độ cao khác nhau. Là nơi ghi nhận các kết quả tương tác giữa sông biển: Quá trình đảo nối bờ (Bàn Than nối bờ), quá trình hình thành doi cát chạy song song với bờ tạo sông Trường Giang
– Giá trị thẩm mỹ: Di tích Bàn Than – Hòn Mang – Hòn Dứa là khu vực có cảnh quan thiên nhiên đẹp. Cảnh quan môi trường nơi đây còn giữ được vẻ hoang sơ với những ghềnh đá phiến bằng phẳng có màu đen tuyền lấp lánh gây ấn tượng, các bãi biển rộng, dài, sạch, nước biển trong xanh. Đá phiến ở đây không chỉ bộc lộ trên diện rộng mà còn được sóng biển và gió mài mòn rất sắc nét. Trên bề mặt các ghềnh đá, thềm đá có những đường nét lạ mắt, hấp dẫn giống như các ký tự cổ, các đường gần gân đá… Ở một số vị trí khác, quá trình phân hóa đã làm màu sắc các tệp phiến lóng lánh trông tựa như một khối ngân phiếu… Chính sự tác động của sóng, gió, thủy triều đã tạc nên các khối đá dáng hiên ngang, chắc khỏe, hình dạng kỳ vĩ. Những hình ảnh thiên tạo giống như những bức tranh của các họa sĩ đương đại, đầy chất trừu tượng được bày ra trên bề mặtnhững mặt phẳng của các phiến đá nơi đây. Những khối đá có hính thù kỳ dị vừa như tả thực vừa như cách điệu một loài thú rừng, hay thủy sinh, khiến thả sức suy đoán để tưởng tượng, cũng là một ấn tượng khó phai đối với người chiêm ngắm. Tất cả những điều này cùng với cảnh quan thiên nhiên hùng vỹ xung quanh đã làm cho các ghềnh đá ở nơi đây trở thành ghềnh đá phiến đặc sắc ở Việt Nam và thuộc vào loại đẹp trên thế giới.
- Thực trạng bảo vệ và phát huy giá trị di tích
Trong thời gian qua, các cấp chính quyền tại tỉnh Quảng Nam đã có nhiều sự quan tâm để bảo vệ và khai thác có hiệu quả nguồn di sản quý giá này. Để giảm bớt các rủi ro ngày càng đè nặng lên khu hệ sinh thái rạn san hô quanh khu vực Bàn Than, Hòn Mang, Hòn Dứa, đầu năm 2003, xã Tam Hải đã cộng tác với Trung tâm bảo tồn sinh vật biển (MCD) tuyên truyền vận động bà con ngư dân tham gia hoạt động tìm hiểu giá trị của rạn san hô, làm sạch bãi biển, thành lập các tổ hạt nhân tuần tra, giám sát việc chấp hành các quy định trong khai thác, đánh bắt nguồn lợi thuỷ sản tại địa phương.Trong khoảng thời gian từ năm 2006 đến 2008, ngư dân địa phương và đặc biệt là nhóm hạt nhân đã cộng tác với các nhà khoa học của viện Hải dương học Nha Trang trồng phục hồi được 1.300 tập đoàn san hô trên 120 giá thể nhân tạo và bề mặt nền đá gốc, tại sườn Đông Nam đảo Hòn Dứa, ở độ sâu 2 – 6m trong diện tích 500m2 mặt nước, có vùng đệm bảo vệ là 5 ha. Từ 2009 đến những năm gần đây, cộng đồng xã đảo Tam Hải đã cùng với Hội Phụ nữ huyện Núi Thành thực hiện Dự án bảo tồn và sử dụng bền vững hệ sinh thái rạn san hô Tam Hải, góp phần bảo vệ môi trường biển và phát triển du lịch sinh thái cộng đồng tại địa phương, theo sự hợp tác hỗ trợ của Quỹ Môi trường toàn cầu.
Năm 2016, huyện Núi Thành đã thông qua “Đề án phát triển du lịch giai đoạn 2016 – 2020, tầm nhìn đến 2025”, trong đó bên cạnh việc chú trọng bảo tồn các giá trị văn hóa, Đề án còn chú trọng đến việc quản lý, bảo vệ và khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên ở xã Tam Hải để phát triển du lịch theo hướng du lịch cộng đồng bền vững.
Vào đầu tháng 08/2017, các ngành chức năng tại Quảng Nam đã tổ chức hội thảo khoa học “Nhận diện giá trị di sản địa chất tại huyện Núi Thành” với sự tham gia của nhiều nhà khoa học có uy tín nhằm đánh giá giá trị di sản địa chất, văn hóa tại Núi Thành trong đó đặc biệt lưu ý đánh giá giá trị địa chất, cảnh quan thiên nhiên của cụm di tích Bàn Than – Hòn Mang – Hòn Dứa.
Từ tháng 9/2017 đến nay, sau khi được UBND tỉnh Quảng Nam xếp hạng di tích cấp tỉnh theo Quyết định số 3411/QĐ-UBND ngày 20/9/2017, việc bảo vệ và phát huy giá trị di tích Bàn Than – Hòn Mang – Hòn Dứa đã được thực hiện theo đúng các quy định của pháp luật về di sản văn hóa. Cụ thể, theo quy chế Quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị các di tích lịch sử – văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Quảng Nam được ban hành kèm theo Quyết định số 08 /2019/QĐ-UBND ngày 02/5/2019 của UBND tỉnh Quảng Nam, thì di tích cấp tỉnh danh lam thắng cảnh Bàn Than – Hòn Mang – Hòn Dứa đã được phân cấp cho UBND xã Tam Hải (huyện Núi Thành) trực tiếp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị.Định kỳ hàng tháng, huyện Đoàn Núi Thành và đoàn thanh niên xã Tam Hải tổ chức dọn vệ sinh tại di tích này.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đạt được thì trong công tác quản lý đối với di sản này còn một số tồn tại như: công tác quản lý các di sản chưa được coi trọng đúng mức, các hoạt khai thác giá trị di tích chủ yếu mang tính địa phương hoặc tự phát…
- Phương hướng bảo vệ và phát huy giá trị di tích
Danh lam thắng cảnh Bàn Than – Hòn Mang – Hòn Dứa… là khu vực có cảnh quan thiên nhiên đẹp, có giá trị tiêu biểu về mặt địa chất, địa mạo; vì vậy, bên cạnh việc thực hiện theo đúng các quy định của pháp luật về di sản văn hóa, huyện Núi Thành và UBND xã Tam Hải cần nhanh chóng thành lập tổ bảo vệ di tích, xây dựng quy chế quản lý, bảo vệ và khai thác hợp lý di sản này.
- Kết luận
Di tích danh lam thắng cảnh Bàn Than – Hòn Mang – Hòn Dứa có cảnh quan thiên nhiên đẹp, là khu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa lý. Điều này đã được các nhà khoa học có uy tín tại Việt Nam khẳng định tại cuộc hội thảo khoa học “Nhận diện giá trị di sản địa chất tại huyện Núi Thành” vào đầu tháng 08/2017. Do vậy, Ban quản lý di tích và danh thắng tỉnh Quảng Nam trân trọng đề nghị Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xem xét xếp hạng danh lam thắng cảnh Bàn Than – Hòn Mang – Hòn Dứa là di tích quốc gia.
- Tài liệu tham khảo
– Tài liệu hội thảo khoa học “Nhận diện giá trị di sản địa chất tại huyện Núi Thành”.
– Ghi chép trong các cuộc khảo sát điền dã tại di tích.
– Tài liệu tham khảo trên một số trang tin điện tử.
NGƯỜI LẬP HỒ SƠ: Phan Văn Quang
GÓP Ý